HOTLINE 09.4400.4400

Tìm hiểu sự phân bố của dân ca Trung Quốc (Phần 2)

Ngày đăng: 26/01/2014 - Lượt xem: 1978
tiengtrung.vn  gửi đến bạn bộ phần mềm học tiếng trung quốc
 

Sự phân bố của dân ca Trung Quốc (Phần 2)


Căn cứ vào bối cảnh văn hóa dân tộc khác nhau và sắc thái phong cách dân ca khác nhau, dân ca Trung Quốc đại thể có thể phân thành sáu vùng sắc thái phong cách như sau:
1. Vùng dân ca văn hóa thảo nguyên phía bắc;
2. Vùng dân ca Tân Cương phía tây chịu ảnh hưởng văn hóa Ixlam;
3. Vùng dân ca tộc Tạng phía tây chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo;
4. Vùng dân ca văn hóa nguyên thủy cổ xưa đa dân tộc cao nguyên Tây Nam;
5. Vùng dân ca văn hóa săn bắt Đông Bắc chịu ảnh hưởng của Tát Mãn giáo;
6. Vùng dân ca văn hóa bán nông bán mục đa dân tộc cao nguyên Tây Bắc;
7. Vùng dân ca tộc Hán Trung Nguyên và duyên hải Đông bộ có văn hóa truyền thống lâu đời.
Về vấn đề phân thành từng vùng, do dân tộc khác nhau, mỗi vùng có cách phân loại riêng theo truyền thống của nó, nên nó có sự khác biệt.

1. Vùng dân ca văn hóa thảo nguyên phía bắc
Vùng dân ca này chủ yếu thuộc khu tự trị Nội Mông Cổ hiện nay, dân ca tộc Mông Cổ làm đại diện. Tộc Mông Cổ vốn có “âm nhạc dân tộc”, ‘thi ca dân tộc”. Dân ca có thể chia làm hai loại là “trường điệu” và “đoản điệu”. Dân ca trường điệu chủ yếu lưu hành ở vùng du mục Đông bộ và bắc Âm Sơn, đặc điểm là chữ ít làn điệu dài, tính trang sức phong phú, âm điệu sống động, lảnh lót, du dương, tiết tấu tự do, thể hiện khí thế thảo nguyên mênh mông và tấm lòng rộng mở của dân du mục . Mục ca, Tư hương ca, Tán ca, v.v. đa số đều thuộc về trường điệu. Khúc ca nổi tiếng có Thảo nguyên mênh mông, Khúc ca du mục, v.v.. Đoản điệu chủ yếu lưu hành ở vùng bán nông nghiệp bán du mục phía tây và phía nam, đặc điểm của nó là kết cấu ngắn, tiết tấu có quy định. Rất nhiều tự sự ca, tình ca, hôn lễ ca, v.v. đều là “đoản điệu”. Dân ca “đoản điệu” nổi tiếng có Sâm các đắc mã, Tiểu hoàng mã, v.v.. Tính chất chung của dân ca văn hóa thảo nguyên là biểu hiện tình cảm và tính cách chất phác, thoải mái, nhiệt tình, hào phóng của mục dân thảo nguyên. Ngoài ra, ở tây Mông còn có loại “Mông Hán điệu” (Man Hán điệu), là sự hấp thu văn hóa âm nhạc lẫn nhau của hai dân tộc Mông và Hán. “Điệu leo núi” lưu hành ở vùng Hà Sáo cũng là loại dân ca tộc Mông, Hán đều thích.

sự phân bổ của dân ca Trung Quốc
2. Vùng dân ca Tân Cương phía tây chịu ảnh hưởng của văn hóa Ixlam
Loại dân ca này ở vùng Tân Cương, đại biểu là dân ca tộc Duy Ngô Nhĩ (WeiWuEr) và tộc Ca – Dắc (Hasake), nó chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền thống Ixlam đến từ Trung Á, có mối quan hệ nhất định đến văn hóa âm nhạc Arập. Tộc Duy Ngô Nhĩ là một dân tộc giỏi ca múa, nghệ thuật ca vũ của họ có “thập nhị mộc ca mẫu” /十二木卡姆 là nổi tiếng thế giới. Dân ca có bốn loại lớn là dân ca tình yêu, dân ca lao động, dân ca lịch sử và dân ca sinh hoạt tập tục. Dân ca Duy Ngô Nhĩ về âm điệu bao gồm ba hệ nhạc: nhạc Trung Quốc, Arập và Châu Âu, nó là loại dân ca Trung Quốc có nguồn gốc âm nhạc đa nguyên hóa. Có nhiều bài ca được kết hợp với vũ đạo, có cách điệu sống động, dí dỏm. Nổi tiếng trong ngoài nước có dân ca A La bổn hãn /阿拉本罕, Leo lên nữa vầng trăng, Leo thành dốc, Tặng tôi một đóa hoa hồng, v.v.. Tộc Ca-Dắc chủ yếu cư trú ở vùng Bắc Cương, sống du mục. Dân ca có thể phân thành ba loại: dân ca có từ khúc cố định (gồm bài ca du mục, bài ca săn bắt, tình ca, bài ca tôn giáo, v.v.); dân ca ngẫu hứng điền từ (gồm sơn ca, ngư ca, mễ ngữ ca, v.v.); tập tục ca (gồm hôn lễ ca, khấp giá ca, tống giá ca, v.v.). Trong đó số lượng tình ca là nhiều nhất, đa số đều thể hiện nổi thống khổ ly biệt hay hạnh phúc của tình nhân. Trong dân ca Ca-Dắc có hai hệ âm nhạc Trung Quốc và âm nhạc Châu Âu. Hệ âm nhạc Trung Quốc có hình thức cung /宫, vũ /羽 điệu là nhiều nhất. Nổi tiếng cả nước có Đợi tôi đến trời sáng, v.v..

3. Vùng dân ca tộc Tạng phía tây chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo
Vùng dân ca này gồm khu tự trị Tây Tạng và khu tụ cư của bộ phận dân tộc Tạng ở Thanh Hải, Tứ Xuyên. Dân ca bao gồm 5 loại: sơn ca (mục ca), bài ca lao động, bài ca tình yêu, bài ca phong tục và tụng kinh điệu. Hoạt động diễn xướng dân ca đa số có liên quan đến các ngày lễ Phật giáo, trong dân ca có không ít bài được kết hợp với điệu múa, như các loại ca múa “nang mã” /囊玛, “đôi tạ” /堆谢, “quả tạ” /果谢, “Oa trang” /锅庄, v.v.. Âm nhạc thuộc hệ nhạc Trung Quốc, đặc điểm chung của dân ca là nhiệt tình, vui tươi, chân thành, cảm động lòng người, mang đậm sắc thái cao nguyên, tiết tấu mạnh mẽ. Bài dân ca nổi tiếng là Bắc Kinh đích Kim sơn thượng. Bắc Kinh đích Kim sơn thượng nguyên là bài ca tiễn /箭 (tức là bài ca săn bắt), thời kỳ đầu lưu truyền ở khu rừng phía đông nam Tây Tạng. Ngày nay trở thành dân ca mới lưu truyền trong cả nước.

4. Vùng dân ca văn hóa nguyên thủy cổ xưa đa dân tộc cao nguyên Tây Nam
Vùng dân ca này là vùng dân tộc thiểu số của vùng Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây. Hơn hai mươi dân tộc khác nhau tụ cư ở nơi này. Dân ca vùng này có đặc trưng văn hóa cổ xưa nhiều tầng, có công năng xã hội đặc biệt, dân ca đa số có hình thức diễn xướng kết hợp “thơ”, “ca”, “múa”, nội dung phức tạp, đa dạng, đồng thời còn tồn tại dân ca các giai đoạn lịch sử khác nhau. Do có nhiều dân tộc chưa có chữ viết, dân ca là công cụ quan trọng ghi lại lịch sử, trao đổi tri thức, và tiến hành các hoạt động giao tiếp xã hội, đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày. Các bài dân ca này đều phản ánh hiện tượng văn hóa đặc sắc, đa tầng. Dân ca mang tính đại biểu của vùng này là dân ca đa thanh bộ. Đa số dân tộc đều có dân ca nhị thanh bộ, tam thanh bộ. Dân ca được phân thành hai loại “đại ca” và “tiểu ca”. “Đại ca” của tộc Đồng, tộc Bố Y, tộc Choang là nổi tiếng nhất. “Đại ca” lại được phân thành ba loại nam thanh, nữ thanh, đồng thanh. “Đại ca” nam thanh nói chung tiết tấu rất mạnh, điệu khúc thanh thoát. “Đại ca” nữ thanh tiết tấu tương đối tự do, hoàn luật tinh tế, nhu hòa. “Tiểu ca” ngoài nhị thanh bộ ra còn có dân ca đơn thanh bộ. Nội dung chủ yếu là tình yêu, nhìn chung là được nam nữ thanh niên dùng hát khẽ trong nhà. Ngoài ra còn có cổ ca, cổ ca tộc Miêu có lịch sử lâu đời nhất. Nội dung tự thuật về sự hình thành trời đất, nguồn gốc con người. Điệu khúc mang tính ngâm tụng, người hát đa số là người già. “Đại ca” tộc Đồng niên đại 50 đã nổi tiếng cả nước, các bài dân ca khác như Quế hoa khai quý nhân lai”, A tế khiêu nguyệt ca, v.v., cũng là những khúc mang tính đại diện.

5. Vùng dân ca văn hóa săn bắt Đông Bắc chịu ảnh hưởng của Tát Mãn giáo
Vùng dân ca này chủ yếu gồm Đại, Tiểu Hưng An Lĩnh đông bắc, đại biểu có dân ca tộc Ngạc Luân Xuân (gồm tộc Ngạc ân Khắc, tộc Hách Triết, tộc Đạt Oát Nhĩ, tộc Mãn, v.v.). Tộc Ngạc Luân Xuân trước năm 1949 còn bảo lưu không ít vết tích xã hội nguyên thủy. Đây là dân tộc thích ca hát, trước đây sinh sống bằng săn bắt, mỗi khi săn bắt được nhiều mang về, hoặc ngày lễ dân tộc, đều có ca múa vui cuồng. Dân ca gồm ba loại: sơn ca, ca vũ khúc và Tát Mãn điệu. Sơn ca còn chia ra “trường điệu” và “đoản điệu”, “trường điệu” cao vang mạnh mẽ, tiết tấu tự do; “đoản điệu” điệu khúc bình hơn, tiết tấu có quy định. Tát Mãn khúc được hát khi thỉnh thần, múa thần, tế tổ, tang lễ, điệu khúc mang hình thức ngâm tụng. Dân ca tộc Ngạc Luân Xuân âm giai 5 thanh. Hình thức cung /宫 điệu, vũ /羽điệu nhiều nhất. Ngoài ra “tiểu xướng tộc Ngạc Luân Xuân” cũng nổi tiếng cả nước.

6. Vùng dân ca văn hóa bán nông bán mục đa dân tộc cao nguyên Tây Bắc
Vùng dân ca này là vùng thượng du Hoàng Hà gồm Cam Túc, Thanh Hải, Ninh Hạ, là vùng tụ cư của các tộc Hán, Hồi, Thổ, Tán La, Bảo An, Đông Hương, Tạng, Dụ Cố, v.v., từ xưa đến nay thuộc phạm vi văn hóa bán nông nghiệp, bán du mục. Trong lịch sử đã từng là vùng đất “con đường tơ lụa” đi qua, văn hóa Đông Tây giao lưu rất sớm, sinh ra loại dân ca tám dân tộc đều có, gọi là “hoa”. Dân ca vùng này có thể phân thành “gia khúc” /家曲 và “dã khúc” /野曲. “Gia khúc” gồm các loại tửu khúc, yến tiệc khúc, tiểu từ, ương ca, v.v.; “dã khúc” là các loại sơn ca, mục ca gồm “hoa” trong đó. Dã khúc chỉ có thể hát bên ngoài nhà. “Hoa” mang tính đại biểu, điệu khúc cao vang dài, cách điệu thâm trầm uyển chuyển, khí chất thô, thuần chất. Bất cứ dân tộc nào cũng đều có thể diễn xướng bằng tiếng Hán, và các dân tộc có từ nền riêng. Khúc ca nổi tiếng có Thượng khứ cao sơn vọng bình xuyên.

7. Vùng dân ca tộc Hán ở Trung Nguyên và duyên hải đông bộ có văn hóa truyền thống lâu đời.
Vùng dân ca tộc Hán là vùng lớn nhất trong các vùng, từ phương Bắc lạnh giá đến phương Nam á nhiệt đới, từ cao nguyên Tây Bắc, cao nguyên Tây Nam đến bình nguyên duyên hải đông bộ, điều kiện địa lý, phong tục tập quán, sinh hoạt, phương thức sản xuất phong phú đa dạng. Ngôn ngữ tuy là Hán ngữ, nhưng phương ngôn rất khác nhau. Sự khác biệt giữa đông, tây, nam, bắc là rất lớn, đặc điểm phong cách của dân ca cũng biểu hiện đa dạng. Mặt khác, tộc Hán ở vùng dân ca thảo nguyên phương bắc, vùng dân ca bán nông nghiệp bán du mục Tây Bắc và vùng dân ca đa dân tộc cao nguyên Tây Nam đều có nhân khẩu trên mười triệu người, do vậy cũng tồn tại hiện tượng trùng điệp vùng dân ca, do tình hình như trên, vùng dân ca tộc Hán có thể phân thành 10 tiểu vùng và một đặc khu.
(1). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Đông Bắc bộ;
(2). Tiểu vùng dân ca cao nguyên Tây Bắc bộ;
(3). Tiểu vùng dân ca Giang Hoài;
(4). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Giang Triết;
(5). Tiểu vùng dân ca Mân, Đài;
(6). Tiểu vùng dân ca Việt;
(7). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Giang Hán;
(8). Tiểu vùng dân ca Tương;
(9). Tiểu vùng dân ca Cán;
(10). Tiểu vùng dân ca cao nguyên Tây Nam;
(11). Đặc khu dân ca Khách gia.
Chủng loại dân ca tộc Hán phong phú, dựa vào công năng xã hội khác nhau có thể phân thành 10 loại lớn: dô hò lao động, sơn ca, tiểu điệu, điền ca, ngư ca, trà ca, ương ca (bao gồm đăng ca), phong tục ca, nhi ca, dao nhi ca.
(1). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Đông Bắc bộ là vùng hạ du sông Hoàng Hà gồm Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam đông bắc Bắc bộ, phía bắc Tô Bắc, và ba tỉnh khu Liêu Ninh, Các Lâm, Hắc Long Giang, trên cơ bản là vùng bình nguyên duyên hải. Từ xưa đến nay vùng hạ du sông Hoàng Hà là vùng văn hóa phát triển. Dựa vào điểm khác biệt nhỏ về phong cách, vùng này lại được phân thành hai vùng nhỏ: vùng Sơn Đông, Hà Bắc, Tô Bắc và vùng Liêu, Các, Hắc. Tiểu vùng thứ hai thực tế là vùng di dân của tiểu vùng thứ nhất. Cho nên dân ca có phong cách gần nhau. Cả vùng dùng phương ngôn phía bắc Đông bộ. Dân ca nơi đây chủ yếu là tiểu điệu, kế đến là ương ca, dô hò, sơn ca rất ít. Dân ca có tính đại biểu là “tiểu bạch thái”, “họa phiến diện”, “Nghi Mông sơn tiểu điệu”, “tiểu khán hí”, v.v..
(2). Tiểu vùng dân ca cao nguyên Tây Bắc bộ gồm Sơn Tây, đại đô Thiểm Tây, phía tây bắc Hà Nam, vùng Hà Sáo Nội Mông và vùng tụ cư tộc Hán ở Cam, Thanh, Ninh. Phía đông lấy Thái Hành sơn làm giới tuyến và phân biệt với vùng dân ca Đông Bắc bộ, Âm sơn phía nam, Tần Lĩnh phía bắc, thuộc vùng trung thượng du sông Hoàng Hà. Trước đây giao thông khó khăn, âm nhạc dân gian ít giao lưu với bên ngoài, dùng phương ngôn phía bắc Tây Bắc bộ. Dân ca có sơn ca là đặc trưng nhất, bao gồm “tín thiên du”, “sơn khúc”, “bà sơn điệu”, ‘hoa”, kế đến là ương ca, tiểu điệu. Ca khúc nổi tiếng cả nước như Tẩu tây khẩu, Hãn sinh linh, Ngũ ca phóng dương, v.v..
(3). Tiểu vùng dân ca Giang Hoài gồm Tô Bắc, lưu vực sông Hoài, An Huy và vùng phía đông nam Hà Nam, phía tây lấy Đại Biệt sơn và vùng dân ca Hán Giang làm giới tuyến. Vùng này ở giữa lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang, văn hóa âm nhạc có cả nhân tố nam – bắc, mang đặc trưng quá độ. Dùng phương ngôn phương bắc. Dân ca nổi bật là điền ca, tiểu điệu, kế đến là ương ca, sơn ca. Nổi tiếng có Phong dương hoa cổ, Vương tam tỷ hãn tập, Đã mạch ca, v.v..
(4). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Giang Triết gồm Tô Nam, Thượng Hải, và đại bộ phận Triết Giang, thuộc hạ lưu sông Trường Giang, là đất của Ngô, Việt thời cổ đại. Văn hóa tương đối phát triển, đời sống nhân dân sung túc, vốn được gọi là “Giang Nam ngư mễ hương” (quê hương cá gạo Giang Nam), dùng phương ngôn Ngô. Dân ca chủ yếu là tiểu điệu, nổi tiếng có Tử trúc điệu, Vô Tích cảnh, Khấp thất thất, Đối điểu, v.v..
(5). Tiểu vùng dân ca Mân, Đài gồm Phúc Kiến, Đài Loan và vùng Triều Sán tỉnh Quảng Đông. Phúc Kiến và Đài Loan từ trước đến nay có mối quan hệ cội nguồn về văn hóa, tộc Hán đất Đài Loan luôn dùng ngôn ngữ Mân Nam. Ngoài ra, hai nơi này còn có một số hý khúc địa phương, âm nhạc thuyết xướng, v.v. tương đồng. Dân ca nổi bật có sơn ca, vân điền thi, tiểu điệu, những bài nổi tiếng có Trà đồng ca, Thiên vu vu, v.v..
(6). Tiểu vùng dân ca Việt gồm đại đô Quảng Đông lưu vực Chu Giang, phía đông nam Quảng Tây và một bộ phận Hải Nam, phía bắc lấy Nam Lĩnh làm giới tuyến và tương cận với vùng dân ca Cán. Nơi đây thuộc vùng á nhiệt đới, Chu giang ngang qua đông tây, giao lưu văn hóa với hải ngoại tương đối sớm, dùng phương ngôn Việt. Trước đây ngư dân là tầng lớp xã hội quan trọng của vùng này. Dân ca nổi bật là ngư ca hoặc thủy ca, nổi tiếng có Lạc thủy thiên, Xuân ngưu điệu, Lý lý mỹ, v.v..
(7). Tiểu vùng dân ca bình nguyên Giang Hán gồm Hồ Bắc, tây nam Hồ Nam và bộ phận bắc Hồ Nam, là trung tâm văn hóa Sở thời cổ đại, dùng phương ngôn Tây Nam. Văn hóa cổ tương đối phát triển, nghệ thuật dân gian có nguồn gốc cổ xưa, đến nay nhiều lĩnh vực bảo lưu được sắc thái cổ. Dân ca nổi bật là điền ca, kế đến là đăng ca, tiểu điệu, phong tục ca, sơn ca. Nổi tiếng có Hoàng tứ tỷ, Hồng hồ ngư ca, v.v..
(8). Tiểu vùng dân ca Tương gồm Hồ Nam và vài huyện ở góc đông bắc Quảng Tây, thuộc bờ nam trung du sông Trường Giang, đây cũng là đất Sở thời cổ đại. Dân thượng Sở phong, địa tập Sở tục (theo phong tục nước Sở), nó có mối quan hệ nội tại chằng chịt với dân ca Giang Hán, song phương ngôn khác nhau, nơi đây dùng phương ngôn Tương. Dân ca nổi bật nhất có sơn ca, điền ca. Nổi tiếng nhất có Mã tang thôn nhi đã đăng đài, Nhất đường hà hoa nhất đường liên, Thượng tứ xuyên, v.v..
(9). Tiểu vùng dân ca Cán, phạm vi cơ bản là trung, bắc, đông Giang Tây, dùng phương ngôn Cán. Vùng này thuộc đất giữa Ngô và Sở thời cổ đại, văn hóa Ngô Sở có ảnh hưởng nhất định, có tính chất vùng quá độ của giao lưu văn hóa đông tây lưu vực sông Trường Giang, dân ca dung hợp mạnh mẽ, trà ca là đặc sắc nhất, sau đó là tiểu điệu, đăng ca. Nổi tiếng nhất có Đỗ quyên hoa khai, Tống lang đương hồng quân, Trích trà hạt, v.v..
(10). Tiểu vùng dân ca cao nguyên Tây Nam bao gồm Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Thiểm Nam và một bộ phận tây bắc Quảng Tây. Bắc lấy Tần Lĩnh làm giới tuyến, thường dùng phương ngôn Tây Nam. Dân ca tiêu biểu là sơn ca, sau đó là đăng ca. Ngoài ra dô hò thuyền phu Xuyên giang cũng đặc sắc. Nổi tiếng có các bài Tiểu hà thượng thủy, Hãn mã điệu, Ngã trú Quý Châu Quý Dương phủ, v.v..
(11). Đặc khu dân ca Khách Gia. Người Khách Gia phân bố tương đối rộng, cả nước có hơn 80 nghìn nhân khẩu, đặc khu chủ yếu là đông bắc Quảng Đông, tây nam Phúc Kiến và vùng giao giới ba tỉnh đông nam Giang Tây. Người Khách Gia tập trung ở đây tương đối nhiều, họ là những người di dân từ trung nguyên phương bắc đến do chiến loạn thời cổ đại, bảo lưu nhiều phong tục cổ xưa, dùng phương ngôn Khách Gia. Dân ca chủ yếu là sơn ca, được biết đến có các bài Đăng hồng ca, Phong xuy trúc diệp, v.v..
 
Phần 1: Quỹ tích phát triển của dân ca Trung Quốc
Phần 3: Phân loại, đặc điểm nghệ thuật và giá trị của dân ca Trung Quốc
trung tâm tiếng trung tốt tại hà nội
 
Bình luận facebook:
Các tin khác:
 Cách Học Từ Vựng Tiếng Trung Dành Cho Người Mới Hiệu Quả Nhất  ( 314 lượt xem ) Cách Phát Âm Chuẩn Tiếng Trung Dành Cho Người Mới Học  ( 635 lượt xem ) Học Tiếng Trung Đơn Giản Hơn Nhờ Xem Phim và Nghe Nhạc  ( 356 lượt xem )
Trung tâm tiếng Trung đông học viên hâm mộ nhất trên Youtube
TRUNG TÂM TIẾNG TRUNG TIENGTRUNG.VN

 Cơ sở 1 : Số 10 - Ngõ 156 Hồng Mai - Bạch Mai - Hà Nội
 Cơ sở 2 : Số 22 - Ngõ 38 Trần Quý Kiên - Cầu Giấy - Hà Nội

 Điện thoại : 09.4400.4400 - 09.6585.6585 - 09.8595.8595

 Phản ánh về chất lượng dịch vụ : xin nhắn tin đến 0943.169.184 (chúng tôi sẽ chủ động gọi lại) 


• Website https://tiengtrung.vn

Công ty TNHH Dương Châu Việt Nam
MST : 0107780017
Địa chỉ : Số 10 - ngõ 156 Hồng Mai - Bạch Mai - Hà Nội
Hotline : 09.4400.4400

• Giờ làm việc :
8h sáng tới 21h15 các ngày trong tuần
(Kể cả chủ nhật )
Riêng thứ 7 làm việc từ 8h sáng tới 17h.

Chính sách và quy định chung
 

 
09.4400.4400